
Sớm nhìn ra những thách thức của điện ảnh Việt: thị trường chưa hình thành, rạp chiếu đếm trên đầu ngón tay, luật kiểm duyệt lỗi thời, Charlie Nguyễn va vào những thách thức của người đi đầu - gánh khoản nợ 20 năm, hãng phim phá sản vì dự án bị cấm chiếu.
Nhìn lại hành trình hơn 20 năm, ông cho biết lý do từ bỏ cơ hội ở lại Mỹ bởi muốn gắn bó quê hương, để: "Được tự do kể những câu chuyện Việt bằng chính ngôn ngữ của mình"
- Cùng gia đình rời Việt Nam năm 1982, khi mới 11 tuổi, quá trình sinh trưởng trong nước để lại trong anh những ký ức gì?
- Ký ức tôi nhớ nhất về quãng thời gian đó là những trò chơi của trẻ con Sài Gòn - đá bóng, bắn bi, chơi tạt lon. Cứ tan học là chạy ra đường. Khoảng 1975, tôi nhớ, người lớn chỉ báo trước vài ngày: "Chuẩn bị qua Mỹ gặp bác Ba". Lúc ấy tôi ở với dì Tư – người cưng tôi nhất nhà. Dì rất chiều chuộng, cho tôi chơi và thích gì cũng được. Trong khi ba là người nghiêm khắc, chỉ bắt học. Với một đứa con nít, vậy là đủ để níu kéo rồi. Nghe tin phải đi, tôi ôm dì khóc, không muốn đi nhưng cũng không thể kháng cự.
Qua đến Mỹ, tất cả đều khác – từ món ăn, ngôn ngữ cho tới cách trẻ con chơi đùa. Trẻ con bên đó sống kiểu khác, không có văn hóa xóm giềng, chơi đùa kiểu Việt Nam. Tôi bắt đầu cảm thấy đã rời khỏi một thế giới mà mình thuộc về.

- Trước khi đi, tôi nghĩ nước Mỹ là nhà lầu, xe hơi, sôi động hơn cả Sài Gòn. Nhưng lúc đặt chân tới Texas, tôi chưng hửng. Khu tôi ở toàn nhà nhỏ, thưa thớt, xung quanh chỉ là cỏ và đất. Ngoài đường không một bóng người, lâu lâu mới có chiếc xe chạy ngang. Không có bạn, không có ai để rủ đá banh. Người lớn sáng đi làm, chiều về ăn tối, rồi ngủ. Mọi thứ lặp đi lặp lại. Cảm giác buồn và trống rỗng.
Còn chuyện học thì cực hơn nữa. Mở sách ra toàn tiếng Anh, không hiểu gì hết. Thêm bản tính ham chơi, không chú tâm học nên thời gian đầu ở Mỹ tôi chật vật một quãng dài. Cô giảng chẳng hiểu gì. Tôi ngồi trong lớp mà thấy việc học lúc đó hoàn toàn vô nghĩa.
Tôi cảm thấy lạc lõng, như bị tách biệt khỏi thế giới xung quanh. Trường học cả nghìn người, nhưng tôi chỉ thấy hai người tóc đen – một người Nhật và tôi.
Điều duy nhất vui vẻ lúc đó là tiết học thể dục. Không cần giao tiếp, thổi còi là chơi. Thể thao, võ thuật là ngôn ngữ đầu tiên giúp tôi hòa nhập. Hồi đó, những bộ phim võ thuật Hong Kong của Lý Tiểu Long rất nổi trên truyền hình Mỹ. Mấy đứa bạn Mỹ của tôi mặc định rằng người châu Á ai cũng biết võ. Chúng nhờ tôi chỉ vài "chiêu". May mắn tôi biết võ thật, lại là môn tôi thích nhất. Từ đó tôi có bạn. Tụi nhỏ Mỹ có thói quen rủ bạn qua nhà cuối tuần. Mỗi đứa một phòng riêng, tha hồ chơi xuyên đêm. Đó là lúc tôi luyện được tiếng Anh.
Còn trong tuần, tôi bị ép học từ 8h đến 10h tối. Về nhà là ngồi vào bàn học, chỉ được nghỉ khi ăn tối. Khoảng hai năm sau, tôi đã đọc hiểu mọi thứ, nói chuyện thoải mái. Về mặt ngôn ngữ và suy nghĩ, tôi hòa nhập hoàn toàn.
- Anh vừa nói võ thuật là ngôn ngữ đầu tiên giúp anh hòa nhập được với môi trường mới. Ngôn ngữ này anh đã được thừa hưởng từ gia đình, cha và ông nội của anh là võ sư. Sinh ra trong gia đình võ đã tác động đến cuộc sống và con đường sau này của anh ra sao?- Gia đình tôi có ba đời theo nghề võ. Thời ông nội, chưa có công nghệ, vũ khí hiện đại nên võ thuật rất được coi trọng. Trai tráng chỉ có hai con đường: làm quan văn hoặc quan võ. Ông nội là võ sư nổi tiếng ở miền Tây, sau này còn tham gia chống Pháp, thành lập lực lượng kháng Pháp (Mặt trận Hà Tiên). Do vậy, tôi và em trai - Johnny Trí Nguyễn, mê võ thuật một cách tự nhiên.
Tôi bắt đầu được tập võ từ năm tuổi. Sáng sớm là đứng tấn, đi quyền. Mỗi lần họp mặt gia đình, chủ đề duy nhất được ông nội, ba, đến mấy chú bác thảo luận là võ thuật. Đó không chỉ là một môn học – nó là môi trường tôi lớn lên, là không khí tôi hít thở.
Tôi nhớ hồi nhỏ mình rất ghét học, nhưng riêng môn Sử lại khiến tôi rất thích thú. Tôi rung động với mọi vị võ tướng của sử Việt - Quang Trung hành quân thần tốc ra Thăng Long để đuổi Tôn Sĩ Nghị về nước, Trần Bình Trọng tử trận ở bờ sông để giữ chân quân Mông Cổ. Rồi những anh hùng như Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Hai Bà Trưng.
Khi sang Mỹ, tôi cũng tự dành tiền tới khu người Việt ở California tìm mua sách lịch sử của bác Trần Trọng Kim. Hồi đó không có internet, sách cũng chỉ có vài cuốn. Lâu lâu mua được một cuốn, tôi đọc tới đọc lui.
Khi đọc những câu chuyện về lịch sử, tôi không thấy chữ mà tất cả hiện ra bằng hình: ngựa phi, voi ra trận, gươm chạm, bụi tung. Tôi không biết ai dạy mình cách tưởng tượng như vậy. Nó cứ tự đến. Tôi như một nhân chứng, xuyên không về quá khứ, đứng giữa chiến trường nhìn mọi thứ xảy ra.
Sau này, tôi mới nhận ra: đó chính là tư duy cần có của một đạo diễn. Một người làm phim không thể chỉ đọc chữ – họ phải thấy cả thế giới phía sau những dòng chữ. Nghe được âm thanh không ai viết, thấy được nhịp điệu không nằm trong câu từ.
Vậy nên với tôi, võ thuật và lịch sử không tách rời nhau. Một bên nuôi đam mê hành động, một bên nuôi trí tưởng tượng. Cả hai cộng lại, mở ra cho tôi một con đường mà đến giờ tôi vẫn đi: làm phim.
- Phim điện ảnh đầu tay anh chọn khởi nghiệp cũng về đề tài lịch sử Việt Nam, quay ngay trên đất Mỹ ("Thời Hùng Vương thứ 18", 1994). Hành trình đến điện ảnh của anh diễn ra thế nào?- Ban đầu, tôi coi điện ảnh như một sở thích thôi. Thời trung học, tôi mê một cái máy quay dùng băng cassette - không có âm thanh, hình trắng đen mờ căm. Tôi nhớ mỗi lần đi siêu thị, tôi và Johnny chạy thẳng ra chỗ bán máy quay, hai đứa cứ đứng nhìn mà thèm chảy nước miếng. Không dám xin mẹ mua vì giá mỗi chiếc tới 79 USD - rất lớn thời đó. Một năm sau, mẹ thấy tội hai đứa nên lẳng lặng mua tặng.
Tôi và em trai bắt đầu quay những đoạn đánh võ, tự dàn cảnh, tự diễn. Không có người cầm máy, tụi tôi phải kê sách lên làm tripod, căn khung rồi bấm máy chạy vào đánh nhau. Quay xong lại chạy ra xem, thấy cắt đầu, cắt chân thì chỉnh lại. Cứ thế mà quay. Rồi tụi tôi dành dụm mua máy quay phim 8 ly, sắm thêm đèn, mua thêm thiết bị. Cứ chơi món này chưa đã thì chuyển qua món khác. Làm hết dự án này đến dự án kia, nhỏ thôi, tôi xem đó là những "cuộc chơi".
Cứ như vậy tới năm tôi 22, 23 tuổi tự nhiên nghĩ mình muốn có "cuộc chơi" mới - làm một bộ phim cổ trang. Thời đó tôi mê phim kiếm hiệp - Kim Dung, Lý Tiểu Long, Thành Long. Nhưng nếu làm cổ trang ở Mỹ thì không đơn giản. Phục trang, bối cảnh, đạo cụ đều phải tự thiết kế. Vậy nên, đã công mất vốn đầu tư, tôi quyết định kéo dài phim ngắn thành phim dài - một tiếng rưỡi. Thế là Thời Hùng Vương 18 ra đời.
Phim đó tiêu hết 300.000 USD. Tiền từ phụ huynh, người thân, và nhiều bạn bè tin tưởng. Đoàn phim thì toàn bạn bè. Người quay, người dựng cảnh kiêm luôn diễn viên. Cả nhóm ai cũng chỉ khoảng 14-15 tuổi. Giờ nhiều người trong nhóm đó đã trở thành đạo diễn - Leon Lê, Nguyễn Ngọc Lâm đều từ "cuộc chơi" đó mà ra.
Phim làm ra... dở. Diễn viên không biết diễn, kỹ thuật còn non. Không ai cho tiền chơi tiếp. Nhưng nhờ cuộc chơi đó, tôi biết mình không thể dừng lại. Dù phim đầu đời thất bại, nó là bước chân đầu tiên - tôi không hối tiếc.
- Vậy tới khi nào thì "cuộc chơi" quay phim này trở thành sự nghiệp?- Mọi thứ đến từ những lần chơi - nhưng chơi hoài, chơi nghiêm túc, rồi tới lúc nhìn lại thì thấy mình đã sống trong nó.
Ban đầu chỉ là quay mấy cảnh đánh võ với Johnny - em trai tôi. Sau đó tụi tôi bắt đầu nghĩ ra các kịch bản ngắn để có chuyện mà quay. Dần dần, tôi nhận lời quay karaoke cho các trung tâm ca nhạc ở Mỹ. Tôi viết kịch bản, dựng câu chuyện cho từng bài hát. Đó là lần đầu tiên có người trả tiền để tôi kể chuyện.
Từ đó, tôi được làm MV cho các trung tâm lớn ở hải ngoại. Không chỉ quay ca sĩ hát, tôi được thực hiện các tiểu phẩm hài. 10 phút, rồi 15, rồi 25, càng lúc tôi càng được kể chuyện dài hơn, sâu hơn.
Tôi từng học kiến trúc vì nghĩ phải có một nghề thật sự để sống, còn phim chỉ để chơi - giống như người thích vẽ tranh, hay đi chụp ảnh. Nhưng một năm sau, tôi thấy sai. Tôi bỏ kiến trúc, chuyển sang học phim. Lúc ấy tôi đã quay hàng chục MV, dựng biết bao tiểu phẩm rồi, nên vào lớp học phim rất dễ. Tôi không học để biết làm, tôi học để hệ thống lại những gì mình đã làm.
Từ những MV karaoke được trả 500 USD một bài, tôi sống được bằng nghề này mà không cần đi làm việc khác để nuôi đam mê.
Lần đầu tiên tôi về Việt Nam làm phim là khi thuyết phục anh Vân Sơn với kịch bản Vật đổi sao dời (2001). Tôi muốn về, dù chưa tìm hiểu chi phí, tôi vẫn thuyết phục anh Vân Sơn "làm phim ở Việt Nam rẻ rề" - chỉ 35.000 USD, bằng giá tôi quay tiểu phẩm cho anh lúc đó. Nói mãi, anh Sơn thấy tôi quá đam mê nên chịu đầu tư. Cả đoàn về. Thời đó, tư nhân chưa được cấp phép làm phim, nên tôi chạy đến Hãng phim Giải Phóng xin hỗ trợ. Tất cả thiết bị hầu như được cho mượn miễn phí. Diễn viên chính thì vẫn là anh em, bạn bè.
Khi chiếu phim ở California, khán giả xem xong vỗ tay. Lần đầu tiên tôi hiểu cảm giác mọi người thích phim mình làm. Không còn động viên xã giao. Cảm giác lúc đó không giống "chơi" nữa.
Lần thứ hai tôi về Việt Nam quay phim là dự án Dòng máu anh hùng - phim lịch sử, võ thuật, đam mê của tôi. Cảm hứng tới từ lần em trai tôi đi du lịch miền Bắc. Johnny liên tục gửi về một loạt ảnh Tây Bắc, rồi nhắn: "Quay phim ở đây thì hết sảy". Ở Mỹ cảnh toàn sa mạc, khô khan, nhìn hình Việt Nam mà choáng. Đẹp đến mức không thể không quay.
Và thế là tụi tôi quyết định về "chơi tiếp". Nhưng cuộc chơi lần này tới 1,6 triệu USD. Tôi rủ rê nhóm bạn từng làm nhiều dự án phim trước đó về cùng. Ai thấy sướng thì nhào vô chơi. Không ai lãnh lương, ai cũng bỏ tiền túi, người có nhà thì đem đi thế chấp. Nếu phim lỗ thì mất nhà, ráng chịu. Nhưng lúc đó, chẳng ai nghĩ nhiều. Phía tôi thì tiền chủ yếu đến từ gia đình. Ngoài ra còn vay ngân hàng - hồi đó là ngân hàng Phương Nam, chiếm khoảng 70% tổng kinh phí. Người đứng tên vay là vợ chồng em gái tôi và chú Nguyễn Chánh Tín. Đến năm ngoái - tức là gần 20 năm sau - mới trả xong nợ cho bộ phim đó.

- Lúc làm phim, tôi không nghĩ gì ngoài việc được chơi. Mục tiêu chỉ là làm một bộ phim mình thích, sướng tay khi làm và hy vọng khán giả thấy hay. Không ai ngồi xuống bàn với nhau để đánh giá "chúng ta đang làm một điều chưa từng có ở Việt Nam". Chỉ sau khi phim ra mắt, mọi người mới ngỡ ngàng nhận ra: chưa ai từng làm một phim võ thuật lịch sử đầu tư bài bản như vậy.
Tôi nhớ rất rõ buổi công chiếu đầu tiên ở rạp MegaStar Nguyễn Trãi, Sài Gòn. Khán giả đông nghịt, phần lớn là người trong ê-kíp - vì riêng đoàn làm phim, diễn viên và anh em cascadeur đã gần 300 người. Nhưng khi ra mắt ở Hà Nội, chỉ có chừng 50 người. Kết thúc buổi chiếu, các nhà báo chẳng hỏi chúng tôi câu nào liên quan đến phim, mà thắc mắc: "Các anh nói tiếng Việt còn lơ lớ, sao lại làm phim về lịch sử Việt Nam?". Biểu cảm của khán giả thì như ngầm hỏi: "Mấy ông này ở đâu ra?". Tôi cảm nhận rõ sự ngỡ ngàng, tự hiểu những gì chúng tôi làm rất lạ với họ.
Rồi lúc đó chưa có thị trường điện ảnh, chưa có hệ sinh thái, chưa có gì cả. Suốt cả năm 2007, chỉ có vài chục phòng chiếu trên cả nước. Phim vẫn chiếu trong rạp ròng rã sáu tháng, vì chẳng có phim Việt nào khác để chiếu. Vé có vài chục nghìn, chưa tới một USD. Nếu lúc đó tôi nghĩ đến bài toán kinh doanh, đến việc hoàn vốn, chắc chắn bộ phim đã không ra đời. Biết bao giờ mới lấy lại vốn?
- Ngã đau ngay khi chạm ngõ điện ảnh Việt, nhận ra những khó khăn từ cả thị trường, thị hiếu khán giả. Lúc đó, quan điểm của anh về làm phim ở Việt Nam bị ảnh hưởng ra sao?- Tôi chưa từng coi Dòng máu anh hùng là thất bại. Với tôi, thất bại là khi rủ người ta chơi mà không ai đi theo. Còn lần đó, tôi rủ cả một đám bạn từ Mỹ về, kéo luôn mấy bạn trẻ ở Việt Nam - những người chưa ai làm phim bao giờ - vậy mà tất cả đều gật đầu, xắn tay áo cùng chơi. Đó là thành công.
Sau bộ phim đó, tụi tôi vẫn ngồi trong quán cà phê mà mơ tiếp về Dòng máu anh hùng 2, phải hoành tráng hơn, phải gấp đôi Dòng máu anh hùng. Vẫn máu lửa, vẫn sôi nổi, vẫn đam mê kể tiếp câu chuyện mình muốn.
Phần một ra rạp, chúng tôi mang đi dự nhiều Liên hoan phim và cũng thắng được nhiều giải thưởng như Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 15, Giải Mai Vàng 2007 có cả giải quốc tế tại Liên hoan phim châu Á -Thái Bình Dương - Los Angeles lần thứ 23 cùng nhiều giải khuyến khích ở nhiều liên hoan khác.
Khi thắng giải ở Los Angeles, Hiệp hội Đạo diễn Hollywood (Directors Guild of America) gửi thư mời tôi gia nhập. Đây là tổ chức kín, chỉ khi bạn được chính họ mời mới có thể trở thành thành viên. Nếu gia nhập, sẽ được bảo vệ rất nhiều quyền lợi như bảo hiểm, lương, thời gian làm việc. Nhưng lúc đó tôi nghĩ, mình đâu muốn theo đuổi các dự án của họ. Tôi muốn về Việt Nam để kể những câu chuyện của mình. Sau đó, hãng phim của Mỹ TWC đặt mua để phát hành ra toàn thế giới.
Còn trong nước, thời ấy các phim điện ảnh Việt Nam vẫn làm bằng kinh phí tài trợ của Nhà nước, Dòng máu anh hùng là phim đầu tư kinh phí lớn nhất, có người gọi là "luồng gió mới", là "bom tấn đầu tiên" của phim hành động Việt. Nhiều diễn viên sau đó đã gắn với dòng phim này. Ngô Thanh Vân từ vai Thúy trong phim mà trở thành "đả nữ", được hãng Weinstein mời casting chung với những ngôi sao lớn của Hong Kong và Trung Quốc nhưng cô không tham gia. Johhny thì trở thành ngôi sao ở Ấn Độ qua hai bộ phim hành động bom tấn. Những điều đó với tôi đó là phần thưởng.
Còn về kinh tế, thì đúng là thảm. Dù phim đã lập kỷ lục phòng vé trong nước, khoảng 10 tỷ đồng, nhưng con số này quá nhỏ so với chi phí sản xuất.
Sau Dòng máu anh hùng, tôi không được làm phim nữa vì hết tiền. Bố mẹ cũng chỉ nói: "Không còn tiền cho mày làm phim". Khoản nợ ngân hàng thì mình phải đi kiếm chỗ khác bù vào. Thế là tôi trở về Mỹ làm mấy dự án nhỏ - quay MV ca nhạc, concert, sitcom, quảng cáo.
Nhưng trong đầu vẫn chỉ ám ảnh: "chừng nào mới được chơi tiếp ở Việt Nam?"
Rồi một ngày, Dustin Nguyễn - nhà làm phim người Mỹ gốc Việt, cũng là diễn viên thủ vai Sỹ trong Dòng máu anh hùng, gọi tôi: "Tao cho mày cơ hội về Việt Nam làm phim nè!". Tôi khoái lắm: "Cho tao làm! Tao về liền!". Rồi Để Mai Tính (2010) ra đời.
- Điều gì khiến anh đau đáu với mong muốn quay về, thay vì tìm cơ hội phát triển ở Hollywood hay các thị trường quốc tế?- Sau Để Mai Tính tôi vẫn đi lại giữa Việt Nam và Mỹ. Ở Mỹ, tôi làm rất nhiều dự án, cả điện ảnh lẫn truyền hình. Tôi cũng có cơ hội hợp tác với các dự án điện ảnh lớn như Ngọa hổ tàng long 2, được làm việc với ê-kíp có nhiều bạn nhận Oscar, học được rất nhiều, nhưng không thấy sướng.
Ở Mỹ, tôi chỉ là người tham gia vào dự án của người khác. Câu chuyện là của họ, ngôn ngữ là của họ. Tôi chỉ được giao việc, làm tốt phần của mình rồi rút. Không được kể câu chuyện của mình, không được làm võ thuật - những thứ làm nên con người tôi.
Dần dần tôi từ chối bớt việc ở Mỹ để dồn sức xây Chánh Phương - hãng phim tôi thành lập ở Việt Nam. Lúc đầu chỉ định làm một phim rồi về, nhưng rồi hết phim này tới phim khác. Dự án chồng dự án. Dần dần, thời gian ở Việt Nam dài hơn ở Mỹ.
Hồi xưa, mỗi năm tôi về Việt Nam khoảng bốn tuần là giải quyết xong hết việc, lại bay về Mỹ. Rồi dần thành hai tháng, ba tháng. Có năm, tôi ở Việt Nam 11 tháng, chỉ kịp bay về Mỹ đúng dịp lễ.
Mỗi lần người ta gọi, tôi đều nói: "Tôi ở Việt Nam, đang làm phim". Dần dần, chẳng ai gọi nữa. Vì họ biết: tôi đã chọn cuộc chơi khác - một cuộc chơi nghiêm túc ở Việt Nam. Có lẽ là bắt đầu từ phim Để Mai tính 2 (2014)
- Khi chuyển sang dòng phim hài, anh khá thành công, trở thành đạo diễn có bộ phim 100 tỷ đồng đầu tiên ở Việt Nam với Để Mai tính 2. Nhiều phim hài khác đứng top doanh số như Tèo Em, Em chưa 18. Tuy nhiên, khi quay lại với dòng phim võ thuật anh lại gặp biến cố. Bụi đời Chợ Lớn bị cấm chiếu do vướng kiểm duyệt, hãng phim của anh phá sản. Từng có những đạo diễn Việt kiều trải qua thăng trầm như anh, và họ chọn rời đi. Điều gì khiến anh vẫn bám trụ?- Nếu gọi là "khó khăn", thì ai làm phim cũng gặp cả. Không chỉ đạo diễn Việt kiều, mà bất kỳ ai - ở Việt Nam hay ở Mỹ - khi làm phim đều phải đối diện với muôn trùng thách thức. Làm phim, nghĩa là đi vào một hành trình nhiều rủi ro. Ở đâu cũng vậy, không có ngoại lệ. Đặc biệt nếu bạn là người tiên phong - làm những điều chưa ai làm, kể những câu chuyện chưa từng được kể - thì càng dễ "đụng rào".
Như hồi đó, phim ma không ai dám làm. Vì bị quy là "mê tín dị đoan", trái với quy định trong Luật Điện ảnh. Nhưng giờ thì sao? Phim ma, kinh dị là thể loại được sản xuất nhiều nhất mỗi năm. Từ chỗ bị xem là sai, giờ nó trở thành nhu cầu giải trí hợp pháp của khán giả. Vấn đề không nằm ở nội dung, mà là thời điểm.
Tôi từng vấp váp với Bụi đời chợ Lớn, nhưng cũng chính bộ phim đó mở đường cho Thanh Sói - phim của Ngô Thanh Vân sau này. Nếu đổi chỗ cho nhau, có thể Thanh Sói cũng không được chiếu. Tôi nghĩ luôn cần một người đi trước, và người đó sẽ phải chịu thiệt thòi.
Với tôi, khó khăn không phải là lý do để bỏ cuộc. Thị trường chưa phát triển thì mình chờ nó lớn lên. Tôi không đặt kỳ vọng vào thành công hay thất bại theo kiểu phim có được chiếu hay không, có lời hay lỗ. Tôi làm phim không phải để đến ngày ra rạp rồi ngồi chờ kết quả. Với tôi, được có cơ hội làm phim mình thích - là thành công. Cái vui lớn nhất là quá trình: lúc viết kịch bản, chỉnh từng câu thoại, quay từng cú máy, gò từng khung hình. Cảm giác đó giống như nhiếp ảnh gia lúc bấm máy, là thứ khiến tôi hạnh phúc.
20 năm về nước, tôi thấy mình may mắn vì thị trường Việt Nam đã cho tôi cơ hội được tiếp tục chơi với điện ảnh. Tôi luôn trân trọng điều đó.
Gần đây tôi có nói chuyện với đạo diễn Hàm Trần. Anh bảo nhiều năm làm nghề, anh ấy từng quên mất một điều: chúng ta đang được làm phim ở chính quê hương của mình. Trong khi rất nhiều người khao khát kể chuyện bằng điện ảnh, nhưng không có cơ hội.
Tôi không chọn thị trường. Tôi chọn nơi cho phép mình chơi và chơi bằng cuộc chơi của chính mình. Ở Hollywood, trừ vài đạo diễn đại tài, còn lại phần lớn không được kể câu chuyện của chính mình. Nhưng ở Việt Nam, ít nhất là đến giờ, tôi được quyền đó. Tôi trân trọng điều đó mỗi ngày.
Năm nay, vừa tròn 20 năm từ khi Dòng máu anh hùng ra đời. Nợ cũng vừa trả xong. Tôi và anh em quyết định làm Dòng máu anh hùng 2 - như một cách bắt đầu lại. Một cuộc chơi khác, trưởng thành hơn.
Phần hai lần này được xây dựng dựa trên câu chuyện thật, người thật - chính ông nội tôi, biệt danh là "Nhạn trắng Cà Mau".
Tôi có trong tay cuốn hồi ký Đời tôi - Sáu Minh do ông nội viết để lại cho gia đình. Nhiều năm qua, cả nhà vẫn chuyền tay nhau đọc. Trước đây, chú tôi - nghệ sĩ Nguyễn Chánh Tín - từng rất muốn dựng thành phim và đóng vai ông nội, nhưng điều kiện chưa cho phép. Giờ là lúc thích hợp để Johnny - em trai tôi tiếp nối vai đó.
Những điều từng là rào cản với tôi - kiểm duyệt, thiếu rạp, thiếu thể loại – nay đã dần được tháo gỡ.
Về ngân sách, tôi không còn lo vì có nhà đầu tư. Về thị trường, chúng ta đã có nhiều rạp hơn, khán giả cởi mở hơn. Thời Dòng máu anh hùng phần một, phim chiếu sáu tháng mà vẫn lỗ vì không đủ rạp. Còn bây giờ, có phim Việt đạt doanh thu vài trăm tỷ - nhà đầu tư thấy rõ đầu ra, nên sẵn sàng đồng hành. Thậm chí, họ muốn cùng tôi mở ra cả một vũ trụ Dòng máu anh hùng - gồm phần hai, ba, bốn với những câu chuyện khác nhau cùng xoay quanh thời kỳ chống thực dân Pháp. Điểm kết sẽ là trận Điện Biên Phủ - dấu chấm hết của thời Pháp thuộc. Sau đó, tôi có thể khép lại chuỗi phim này. Lúc đó, tôi cũng đã có tuổi rồi. Nhưng ít nhất, tôi đã kể xong những gì muốn kể.

- Nếu muốn phát triển nhanh, TP HCM cần tạo điều kiện để các đoàn phim quốc tế - nhất là Hollywood - vào Việt Nam làm phim.
Hãy nhìn sang Thái Lan. Mỗi năm họ sản xuất hơn 500 phim nước ngoài. Việt Nam thì chưa tới 10. Tôi cho rằng, khi được làm việc cùng 500 đoàn phim quốc tế, tay nghề, tư duy, quy trình tất cả đều sẽ được nâng lên một cách khủng khiếp. Họ được va chạm, được làm trong môi trường chuyên nghiệp - cái mà chỉ làm phim trong nước thì khó có được. Chúng ta nghĩ mình đang làm phim, nhưng nếu tham gia một đoàn Hollywood, sẽ thấy chúng ta chỉ như mới "tập tành".
Ngành điện ảnh Việt Nam hiện tại phát triển phần nhiều theo hướng "tự học là chính". Làm xong phim này mới rút ra bài học cho phim sau. Nó chậm, vì thiếu sự va chạm với thế giới đã ở đỉnh cao.
Khi mình tiếp xúc với người giỏi hơn mình rất nhiều, tự nhiên mình thay đổi mindset. Không phải do họ ép, mà do mình nhìn thấy cái hay. Nhìn thấy xong mới ngộ ra: "À! Hóa ra không khó, chỉ là cách tư duy của mình bị giới hạn".
Cho nên nếu muốn TP HCM trở thành trung tâm điện ảnh của khu vực, không thể chỉ tập trung phát triển nội lực, mà phải chủ động mở cửa, mời thế giới vào cùng chơi.
Mục tiêu trở thành thành phố điện ảnh nằm trong cái danh sách của UNESCO thì cũng cần cân nhắc các tiêu chí của họ. UNESCO đánh giá dựa trên tính bền vững, đòi hỏi TP HCM không chỉ đạt tiêu chí ban đầu mà còn phải duy trì lâu dài. UNESCO muốn thấy qua điện ảnh Việt Nam, văn hóa, con người, lịch sử Việt Nam được bảo tồn và lan tỏa, góp phần vào sứ mệnh bảo vệ văn hóa nhân loại của họ. Vì vậy, điện ảnh Việt Nam, dù làm phim lịch sử hay hiện đại, cần thể hiện bản sắc dân tộc.
- Là thế hệ đạo diễn Việt kiều đầu tiên về nước, anh cho rằng bản thân có thể góp sức gì trong mục tiêu này của thành phố?- Nếu có, tôi chỉ mong chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức thông qua các buổi workshop, cố vấn, cuộc thi mà tôi đang tham gia phi lợi nhuận. Hai năm trước, tôi đã hợp tác với Netflix tổ chức khóa đào tạo cho các nhà làm phim trẻ. Tôi muốn mở ra cánh cửa cơ hội giúp các bạn trẻ đam mê dễ dàng tiếp cận, học hỏi kỹ thuật làm phim chuyên nghiệp.
Nhóm làm phim có dự án xuất sắc sẽ được chương trình tài trợ 100% kinh phí làm phim, tôi tham gia cố vấn trực tiếp để sản xuất thành mini-series.
Ngoài những khóa ngắn hạn, tôi cũng đang xây dựng những khóa dài về biên kịch, đạo diễn, sản xuất. Tôi thấy các bạn trẻ hiện tự học hoặc học qua nhiều khóa ngắn hạn, không khả thi. Học viên tốt nghiệp có sản phẩm, hay hay không chưa bàn tới, nhưng phải có hệ thống. Nền điện ảnh phát triển cần nhiều bạn trẻ góp sức, làm bài bản.
Nếu có điều muốn nói với những người trẻ có ước mơ làm phim thì đó là: "Làm ngay đi, đừng ngồi chờ!". Hồi xưa tôi làm phim, khó gấp trăm lần bây giờ. Mọi thứ đều cần tiền: rửa phim, chuyển băng, thuê phòng dựng. Tôi từng xin mẹ 20 đô, chạy xe lên Hollywood mua cuộn phim dài gần 3 phút, giá 17 đô. Quay xong, tôi tiếp tục lái xe cả tiếng gửi đi rửa, đợi hai tuần mới xem được thành quả.
Bây giờ thì khác, điện thoại trong tay là làm được phim. Ai cũng có điện thoại, nghĩa là ai cũng có thể làm phim. Cơ hội nằm sẵn trong túi các bạn.

Nội dung: Thùy Ngân - Diễm Hạnh
Video: Bảo Quyên - Hoàng Minh
Photo: Phùng Tiên - Thành Nguyễn
Đồ họa: Hoàng Khánh