Không cần hoàn thành tái định cư trước khi thu hồi đất trong trường hợp nào?
Bộ Tư pháp đang thẩm định hồ sơ dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai 2024 do Bộ NN&MT chủ trì soạn thảo.
Đáng chú ý, dự thảo đề xuất sửa đổi điều kiện thu hồi đất Khoản 3 Điều 80 Luật Đất đai 2024: Điều kiện thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng là phải hoàn thành việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và việc bố trí tái định cư theo quy định của Luật này.
Theo quy định hiện hành trên, nhà nước không thể thu hồi đất trước rồi mới bồi thường, hỗ trợ, tại định cư. Tuy nhiên, dự thảo đã đề xuất sửa đổi, bổ sung theo hướng cho phép thu hồi đất trước khi hoàn thành việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và việc bố trí tái định cư trong một một số trường hợp đặc biệt.
Dự thảo mới đề xuất các trường hợp đặc biệt như: Dự án trong điểm quốc gia, dự án đầu tư công khẩn cấp, dự án có từ 75% người dân đồng ý thì có thể thu hồi đất khi phương án mới được công khai nhưng chưa được phê duyệt.
Cụ thể, thu hồi đất khi phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được công khai nhưng chưa được phê duyệt trong trường hợp không có bố trí tái định cư đối với các dự án quan trọng quốc gia, dự án đầu tư công khẩn cấp theo quy định của pháp luật về đầu tư công, dự án khác được trên 75% người sử dụng đất đồng ý.
Trường hợp phải bố trí tái định cư thì chỉ được thực hiện thu hồi đất trước khi bố trí tái định cư trong các trường hợp dự án đầu tư công khẩn cấp, dự án thực hiện tái định cư tại chỗ, dự án mà việc bố trí tái định cư được theo tuyến công trình chính. UBND cấp tỉnh quy định thời gian và kinh phí tạm cư đối với trường hợp quyết định thu hồi đất trước khi hoàn thành bố trí tái định cư.
Bộ TN&MT lý giải, việc sửa đổi, bổ sung như trên nhằm tháo gỡ khó khăn, rút ngắn thời gian thu hồi đất, đáp ứng yêu cầu cấp bách về tiến độ hoàn thành các dự án quan trọng quốc gia, dự án đầu tư công khẩn cấp, bảo đảm sự linh hoạt đối với dự án mà đa số người có đất thu hồi đồng thuận thu hồi đất trước khi phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và hoàn thành bố trí tái định cư, đồng thời vẫn phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người có đất thu hồi.
Dự thảo cũng bổ sung 3 trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng tại điều 79.
Trường hợp đầu tiên: Thực hiện các dự án đầu tư công khẩn cấp phục vụ cho nhiệm vụ chính trị, đối ngoại; dự án trong khu thương mại tự do, trong trung tâm tài chính quốc tế; dự án logistics; dự án hỗn hợp dân cư, đô thị, du lịch, dịch vụ thương mại, văn hóa, thể thao và các mục đích khác; dự án công nghiệp văn hóa và các dự án phát triển kinh tế - xã hội khác do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương.
Trường hợp hai, sử dụng đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất mà hết thời hạn phải hoàn thành việc thỏa thuận hoặc hết thời gian gia hạn nếu được gia hạn thời gian hoàn thành thỏa thuận và đã thoả thuận được trên 75% diện tích đất và trên 75% số lượng người sử dụng đất thì Nhà nước thu hồi phần diện tích đất còn lại để giao đất, cho thuê đất cho chủ đầu tư.
Trường hợp 3, tạo quỹ đất để cho thuê đất tiếp tục sản xuất, kinh doanh quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 124 của Luật Đất đai năm 2024.
Trường hợp thu hồi đất quốc phòng, an ninh không cần báo cáo Thủ tướng
Dự thảo cũng sửa đổi khoản 2 Điều 84 theo hướng trường hợp phải thu hồi đất để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nhưng chưa có trong quy hoạch sử dụng đất quốc phòng, an ninh thì Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an gửi văn bản lấy ý kiến thống nhất của UBND cấp tỉnh nơi có đất để cơ quan, người có thẩm quyền làm căn cứ quyết định thu hồi đất theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Luật Đất đai mà không phải lấy ý kiến của Bộ NN&MT và không phải báo cáo Thủ tướng xem xét, chấp thuận. Trường hợp không thống nhất thì báo cáo Thủ tướng xem xét, quyết định.
Tương tự, khoản 3 Điều 84, đối với dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng mà phải thu hồi đất quốc phòng, đất an ninh nhưng diện tích đất dự kiến thu hồi chưa được xác định trong quy hoạch sử dụng đất quốc phòng, an ninh là đất chuyển giao cho địa phương thì UBND cấp tỉnh nơi có đất lấy ý kiến Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và việc quyết định thu hồi đất chỉ được thực hiện sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đối với đất quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an đối với đất an ninh.
Như vậy, sau khi có ý kiến thống nhất với Bộ trưởng Quốc phòng về việc thu hồi đất quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an với đất an ninh là căn cứ để địa phương thực hiện thu hồi đất, phù hợp với quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Luật Đất đai và không phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ chấp thuận. Trường hợp không thống nhất thì báo cáo Thủ tướng xem xét, quyết định.
Link nội dung: https://thuonghieudoanhnhan.net/sua-doi-dieu-kien-thu-hoi-dat-truoc-khi-hoan-thanh-tai-dinh-cu-a51568.html